Latest Post

Bê tông nhẹ - Vật liệu cho tương lai

[Xay dung xanh] - Một đề tài đưa ra giải pháp cho rác thải và môi trường. Một đề tài được thực hiện bởi các bạn sinh viên. Và quan trọng nhất đó là những sinh viên Việt Nam ngay trên đất Việt.


Nhóm bốn sinh viên năm cuối Đại học Kiến trúc TP.HCM đã có ý tưởng dùng xốp phế thải để sản xuất bêtông nhẹ xây dựng. Đề tài thành công đã mở ra hướng giải quyết một lượng lớn xốp phế thải trong môi trường.
Nhóm sinh viên nghiên cứu đề tài “Tận dụng xốp phế thải để sản xuất bêtông nhẹ”: Minh Tân, Hoàng Nguyên, Kim Thanh và Thế Anh (từ phải sang) - Ảnh: PHƯỚC TUẦN


Đề tài “Tận dụng xốp phế thải để sản xuất bêtông nhẹ” của Hoàng Nguyên, Kim Thanh, Thế Anh và Minh Tân (SV năm cuối lớp XD 08A1) vừa đoạt giải khuyến khích giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 13-2011, được hội đồng giám khảo đánh giá cao về ý tưởng có tác dụng bảo vệ môi trường.

Ý tưởng độc đáo

Cả bốn bạn đều học ngành xây dựng dân dụng nên thường ngày tiếp xúc nhiều với các vật liệu mới, có tính ứng dụng cao của nhiều nước trên thế giới. “Mỗi lần ăn cơm hộp ở trường, mình thấy một lượng lớn hộp xốp bỏ đi rất phí. Ngoài ra còn lượng lớn xốp phế thải từ các thùng đựng tivi, tủ lạnh, đầu đĩa... Thế là ý tưởng tận dụng xốp phế thải thay thế một lượng sạn cát làm nguyên liệu sản xuất bêtông nhẹ trong xây dựng ra đời từ đó” - Nguyên nhớ lại.
Hoàng Nguyên (trưởng nhóm) cho biết công nghệ xây dựng nhà ở bằng phương pháp lắp ghép có sử dụng các cấu kiện panel (hoặc tấm lớn) tường, sàn, mái làm từ bêtông nhẹ hay sử dụng block gạch nhẹ. Đây là công nghệ xây dựng hiện đại có nhiều ưu điểm được nhiều nước tiên tiến áp dụng. Vì thế, khi tận dụng xốp sản xuất bêtông nhẹ không những theo hướng hiện đại trong xây dựng, mà còn giúp giải quyết vấn nạn ô nhiễm từ lượng lớn xốp phế thải.
Cánh cửa dẫn đến vật liệu xanh
Đem ý tưởng, nội dung đề tài trao đổi với giảng viên hướng dẫn Phan Thế Vinh (ĐH Kiến trúc TP.HCM), nhóm được thầy ủng hộ nhiệt tình. Những ngày đầu vào phòng thí nghiệm trường, cả nhóm lúng túng chẳng biết bắt đầu từ đâu. Suốt sáu tháng thực hiện đề tài, cả nhóm mải miết thu gom vỏ cơm hộp ở các giảng đường, dãy trọ, những miếng xốp phế thải ở các hộ gia đình... về nghiền vụn làm nguyên liệu. Kim Thanh - thành viên nữ duy nhất của nhóm - bộc bạch: “Buổi nào không có tiết học, các thành viên lại cặm cụi với ximăng, cát, xốp ở phòng thí nghiệm của khoa để đổ bêtông mẫu. Dù vất vả nhưng ai cũng cố gắng nghiên cứu, thử nghiệm để đưa ra một tỉ lệ trộn hợp lý cho chất lượng bêtông tốt nhất”.
Nhóm đã thực hiện sáu thí nghiệm, mỗi lần thí nghiệm đổ ba khối bêtông mẫu 15cm x 15cm x 15cm. Ba lần đổ thí nghiệm cuối đã cho ra những tiêu chuẩn ổn định về kỹ thuật như độ nén, sức bền và kinh phí. Bêtông xốp có cường độ chịu nén 1-3 MPA (đơn vị đo lực nén), giá thành rẻ hơn so với các vật liệu nhẹ khác (ước tính 832.000 đồng/m3), được sản xuất theo dạng bêtông khối. “Bước đầu nghiên cứu thành công loại bêtông nhẹ này sẽ mở ra cánh cửa mới cho việc tận dụng các phế thải khác vào nghiên cứu, tạo ra các sản phẩm vật liệu xanh mới. Ngoài ra, nếu bêtông xốp được người dân biết đến, mọi người sẽ có ý thức hơn trong việc bảo vệ môi trường xung quanh, góp phần cải thiện mỹ quan thành phố”, Minh Tân hi vọng.
Theo TS Lưu Nguyễn Nam Hải, phó trưởng khoa kỹ thuật công trình ĐH Tôn Đức Thắng, thành viên hội đồng giám khảo giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka lần 13- 2011, ý tưởng đề tài của nhóm rất hay về mặt khoa học lẫn xã hội. Bêtông xốp nhẹ không những góp phần bảo vệ môi trường, mà còn bổ sung vào ngành xây dựng VN một vật liệu nhẹ mới trong xây dựng, có nhiều ưu điểm về kết cấu bao che, thi công đơn giản và kinh phí sản xuất thấp. Loại bêtông này rất phù hợp để xây dựng nhà cho đối tượng hộ gia đình thu nhập thấp ở các đô thị lớn nước ta.
Hiện nhóm vẫn đang tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện đề tài với mong muốn trong tương lai có thể nhân rộng công nghệ sản xuất bêtông nhẹ từ xốp.


Tựa gốc: "Biến nhựa xốp thành bêtông nhẹ"
PHƯỚC TUẦN
Bê tông xốp nhẹ là gì?

Định nghĩa đơn giản nhất của bêtông xốp nhẹ là “bêtông có chứa bọt”. Hàm lượng bọt trong bêtông có thể lên đến 75% thể tích.
Bêtông xốp nhẹ là một loại vật liệu nhẹ , ở dạng vữa thì dễ chảy, có thể ứng dụng trong rất nhiều công trình.. Khi khô nó có tỷ trọng trong khoảng 400-1600 kg/m3 và có độ chịu nén từ 1 MPa to 15 MPa.

Vữa bêtông nhẹ có bọt có thể đúc dễ dàng, và có thể bơm bằng bơm bêtông. Khi đổ vào khuôn thì không cần dùng đầm. Bêtông xốp nhẹ chịu nước ( không thấm), chịu đông giá, có khả năng cách âm và cách nhiệt rất cao.
Với tính đa năng, nó có thể được điều chỉnh công thức pha trôn khi sản xuất để phù hợp với các mục tiêu sử dụng rất khác nhau, cho hiệu quả kỹ thuật và kinh tế tối ưu.

Việc công thức pha trộn có thể thay đổi, có nghĩa là bêtông xốp nhẹ không phải là một sản phẩm duy nhất. Loại trừ một số sản phẩm đúc sẵn, bêtông xốp nhẹ không phải là sản phẩm có sẵn cho một mục tiêu nào đó. Nó hầu như được sản xuất tại công trường, với một công thức trộn tối ưu phù hợp cho một mục đích sử dụng nhất định.

Mặc dù hay được gọi là “bêtông nhẹ”, nó thực ra không phải là bêtông theo nghĩa hay dùng. Bêtông xốp nhẹ thực ra là dạng đông cứng của vữa ximăng chứa bọt khí. Vữa có thể là hỗn hợp của ximăng-nước, hoặc ximăng với cát và nước. Bêtông xốp nhẹ không chứa cốt liệu thô (sỏi đá).

Cũng vì thế nó không có các đặc tính giống như bêtông thông thường: nó nhẹ hơn và cường lực không bằng bêtông thông thường. Do đó chúng cũng được áp dụng vào các mục đích sử dụng khác nhau với tính chất khác nhau.

SẢN XUẤT BÊ TÔNG XỐP NHẸ THẾ NÀO?

Bê tông xốp nhẹ được sản xuất bằng cách trộn bọt khí đặc biệt vào vữa ximăng. Bọt khí được sản xuất bằng chất tạo bọt . Đây là một chất tạo bọt dạng lỏng hiệu quả cao, đặc, hàm lượng dùng rất thấp. Nó được pha với nước và cấp vào máy tạo bọt hay máy tương đương.

Trong máy tạo bọt , chất tạo bọt được pha với nước tạo ra hỗn hợp dung dịch tạo bọt, sau đó dung dịch này được thổi dưới áp lực cao qua đầu phun của máy. Tại đầu phun, bọt bền vững được tạo ra với thể tích gấp 20-25 lần dung dich tạo bọt.

Ưu điểm của bêtông xốp nhẹ ?

Nó không bị lún, không co, nên không cần dùng đầm để đầm.
Rất nhẹ nên giảm tải trọng rất nhiều. Chi phí làm móng cho nhà cao tầng có thể giảm một nửa!
Chảy tự do: không cần san gạt khi đổ vào khuôn, mặt trên luôn phẳng, rất nhẵn và đẹp. Nó có thể chảy đến và lấp đầy bất cứ lỗ hổng nào. Không cần san khi đổ sàn.
Khả năng phân bố tải trọng cao: có thể dùng đổ móng nhà tiết kiệm chi phí.
Khi đổ vào khuôn thì không cần bảo dưỡng.
Tính năng cách âm, cách nhiệt tuyệt hảo.
Không gây ra tải trọng ngang.
Không thấm nước.
Chống cháy rất tốt.
Gía thành rẻ
Không độc hại.
Dễ kiểm soát chất lượng khi sản xuất.

Phạm vi áp dụng
Cách nhiệt mái: Dùng bêtông xốp nhẹ có tỷ trọng thấp đổ mái trần: cách nhiệt rất tốt, thi công nhanh ,dễ dàng và rất rẻ.

 

Lấp các hào rãnh : Bêtông xốp không lún. không cần dùng máy đầm để đầm chặt, nó lấp hết các lỗ hổng đào ra trong hào, vì vậy nó cho phép thi công san lấp rãnh rất nhanh, chất lượng mặt đường rất tốt, không cần chờ lâu ngày mới hoàn thiện. Đặt đường ống xong là hoà thiện đường ngay.

Lấp các lỗ hổng: Vữa bêtông xốp rất lỏng dễ chảy nên có thể chảy đến mọi vị trí khó nhất , khe nhỏ nhất để lấp đầy : đặc biệt hữu hiệu trong sửa chữa công trình..

Xây tường nhà: Các tường bao không chịu tải có thể được xây bằng cách đổ khuôn trực tiếp trong cốp pha. Xây tường rất nhanh và rẻ. Có thể xây bằng gạch bêtông nhẹ đúc sãn: xây nhanh, lắp đặt điện nước dễ dàng, tải trọng công trình giảm đáng kể giúp tiết kiệm rất nhiều chi phí xây móng.

 

Móng trụ cầu: dùng bêtông nhẹ có nghĩa là cần ít móng hơn, đóng ít cọc hơn

 

Xây dựng đường hầm: Bêtông xốp nhẹ được dùng để bơm vào các khe, hốc tạo ra khi đào hầm qua đât đá, để bơm trám trong hoàn thiện thành hầm
Làm sàn nhà: dùng bêtông nhẹ tỷ trọng thấp thi công sàn nhà, sân bãi hay các mặt phẳng trong công trình rất nhanh, dễ dàng, mặt rất phẳng , giá thành rẻ

Một số ứng dụng khác:

Đúc gạch bêtông nhẹ để xây.
Xây các kết cấu chống cháy
Làm tường , panel cách nhiệt.
ổn định nền trong xử lý móng đất.
Thi công nền đường.
Lấn biển, xây cảng tại những nơi đất yếu.



Theo: http://cauduongbkdn.com

Người dân sẽ sớm uống nước cống xử lý

[Xay dung xanh] - Ô nhiễm môi trường, hạn hán là nguyên nhân dẫn đến thiếu hụt nước xài và sinh hoạt. Ở một nước tiên tiến như Mỹ thì nước được tái chế để sử dụng. Còn ở những nước đang phát triển, người dân phải làm gì!




Theo một bài báo của The Houston Chronicle thì nước thải từ những hoạt động hàng ngày như đangh1 răng, tắm giặt, hay dội bồn cầu sẽ rất quan trọng đối với tiểu ban Texas trong tương lai. Dự đoán, đến năm 2060, Texas sẽ sử dụng hơn 50% nước "tái chế" tương đương 60 tỉ lý lít.  

Texas water suppliers plan to blend a small portion of the highly treated effluent, as necessary, with more 'natural' waters -- presumably to dilute the wretch factor. If the extreme Texas drought continues apace, however, they might have tip the balance more toward the straight effluent, no chaser, blend.
Các nhà cung cấp nước tại ban này dự định sẽ pha một lượng nhỏ nước đã qua tái chế  kỹ lưỡng với nước tự nhiên.

Nhiều ngành công nghiệp đặc biệt cần nước sạch để hoạt động. Ví dụ như nước uống đóng chai, sản xuất dược phẩm, các sản phẩm cá nhân, thức ăn... Và những ngành sản xuất này sắp phải đứng trước lựa chọn quan trọng là hoặc nhập khẩu một lượng nước đủ để đáp ứng các hoạt động sản xuất hoặc phải xây dựng một hệ thống thẩm thấu ngược đắt tiền hay phải dời cơ sở sang một nơi có thể đáp ứng nhu cầu về nguồn nước.
Gần đây đã xuất hiện nhiều mưa ở Texas, tuy nhiên về tổng thể vẫn không có gì khả quan.





Biết đâu vào một ngày nào đó chúng ta phải tái chế cả nước tiểu để sử dụng!
Theo treehugger.com

"Bồn tiểu" độc!

[Xay dung xanh] - Trong tương lai, bạn sẽ không phải đến bệnh viện để xét nghiệm nước tiểu nữa. Tolet nhà bạn có thể làm việc đó!

Một thiết kế của Royce Zhang với tên gọi Yanko có khả năng phân tích nước tiểu và cho bạn biết độ Ph, mức độ đường, tỉ lệ hồng cầu bạch cầu trong máu....sau khi bạn "trút bầu tâm sự" 










So với việc các bác sĩ đã từng phải nếm nước tiểu để phát hiện bệnh tiểu đường, sau đó phương pháp Uroscopy cho phép chuẩn đoán bệnh vàng da, bệnh liên quan đến thận. Thì đây thực sự là một phát minh hữu ích, không chỉ vậy ở Đức, nhà vệ sinh còn có phần phân tích phân để phát hiện các loại giun sán trong cơ thể. 

© Royce Zhang
Với phát minh này, chúng ta có thể phát hiện sớm những triệu chứng bệnh trong cơ thể mình và có biện pháp điều trị hợp lý nhất. Với một lý do nào đó, người phát minh ra thiết bị này gọi nó là "cô ấy", nhưng dù là gì đi nữa, những thiết bị thế nào sẽ sớm xuất hiện trong gia đình của chúng ta. 
Theo treehugger.

Công trình xanh: cần khuyến khích và hỗ trợ

[Xay dung xanh] - Muốn triển khai xây dựng xanh thì cần phải có những chính sách phù hợp cho loại hình này vì không phải kỹ thuật, công nghệ mới mà giá thành cũng không phải thấp.    


Lĩnh vực xây dựng có vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) thông qua các giải pháp giảm nhẹ và thích ứng của bản thân các công trình. Đó là đúc kết được các chuyên gia xây dựng chỉ ra trong cuộc hội thảo mới diễn ra tuần qua tại TPHCM. 

Kiến thức ít, chi phí nhiều

Công trình xanh, hoặc kiến trúc xanh tựu trung là một trong các giải pháp nhằm làm giảm thiểu phát thải nhà kính vốn là nhân tố khiến trái đất ngày một nóng dần lên, kéo theo biết bao hệ lụy đáng gờm từ BĐKH.
Tác dụng của những công trình kiến trúc xanh đã rõ: tiết kiệm nhiên liệu - năng lượng sử dụng; môi trường nơi cư trú và làm việc sẽ giảm thiểu bụi bặm và các hóa chất độc hại, đồng nghĩa giúp giảm chi phí y tế… Thế nhưng thật đáng tiếc khi trong thực tế tại Việt Nam, mô hình công trình kiến trúc xanh vẫn chưa gặp thời. Các chuyên gia chỉ ra rằng một trong những nguyên nhân khiến cho công trình xanh vẫn còn là “thiểu số” tại Việt Nam, đó là do sự thiếu vắng, ít ỏi thậm chí vắng mặt hoàn toàn các tài liệu về công trình xanh. Số lượng sách báo cung cấp kiến thức chuyên môn bị hạn chế như thế đã khiến cho kiến trúc xanh chưa được phổ cập trong nước.

Đã thế, ngay cả những tài liệu kiến trúc xanh xuất hiện hiếm hoi không phải lúc nào cũng phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam. Bởi vì hầu hết các tài liệu về công trình - kiến trúc xanh đều có xuất xứ từ châu Âu hoặc Bắc Mỹ tức là những nơi chủ yếu các nhà thiết kế, tham mưu lo tập trung, ưu tiên “chống lạnh”, trái ngược với điều kiện địa lý tại Việt Nam là ưu tiên “chống nóng” và “thoát ẩm”!

Vướng mắc tiếp theo chính là vấn đề chi phí. Bởi vì các công trình - kiến trúc xanh nếu có nhược điểm nào thì đó chính là vấn đề kinh phí đầu tư ban đầu nhiều hơn hẳn so với các công trình - kiến trúc thường. Một chuyên gia thuộc Sở Xây dựng TPHCM khẳng định rằng, điều hiển nhiên không thể chối bỏ, đó là vật liệu xây dựng dùng trong mô hình kiến trúc xanh do phải đáp ứng được một số yêu cầu đặc biệt, nên thường có giá thành ban đầu cao hơn hẳn vật liệu xây dựng bình thường. Chẳng hạn một công trình cao ốc sử dụng cảm ứng để điều chỉnh ánh sáng đèn thích hợp thì đầu tư sẽ khác; tương tự sẽ tốn kém hơn nếu làm tường 2 lớp nhằm đạt mục đích ổn định và cách nhiệt tức giảm bức xạ nhiệt, chống nóng.

Tại Việt Nam, ngay từ cách đây 5 năm Chính phủ đã có quyết định phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Sau đó, Bộ Xây dựng cũng đã đề ra nhiều tiêu chuẩn như hướng dẫn thiết kế sử dụng năng lượng tiết kiệm - hiệu quả cho nhà ở cao tầng, nhà văn phòng… Chỉ có điều đến nay chưa có một chế tài cụ thể nào cho việc khuyến khích các công trình xây dựng theo mô hình kiến trúc xanh.

Hệ lụy của tất cả những điều nêu trên chính là một bản tổng kết làm buồn lòng những ai quan tâm đến thích ứng BĐKH: Các nhà đầu tư vì suất đầu tư ban đầu cao nên tỏ ra “hờ hững”, “lạnh nhạt”; các nhà quản lý xây dựng và chính quyền đô thị chưa khuyến khích, quảng bá một cách thiết thực, đủ tầm. Cho nên chẳng lạ khi trong thực tế, các công trình gọi là “nhà ở thông minh”, “công trình tiết kiệm năng lượng”… vẫn chỉ xuất hiện lẻ tẻ, tự phát dưới dạng một dự án đơn lẻ, chứ chưa thực sự trở thành khuynh hướng xây dựng tất yếu.

Đi tìm giải pháp

Trong một cuộc hội thảo chuyên đề về công trình xanh được tổ chức tại Việt Nam hồi cuối năm ngoái, chuyên gia Darren O’Dea – đại diện Hội đồng công trình xanh Việt Nam đã khuyến cáo việc xây dựng công trình xanh phải phù hợp với khí hậu, văn hóa và tầm phát triển của bản thân ngành xây dựng trong nước. Điều này cũng có nghĩa Việt Nam phải biết linh động vận dụng từ các sách vở, mô hình nước ngoài. Chuyên gia Phan Trường Sơn, Trưởng phòng Phát triển đô thị, thuộc Sở Xây dựng TPHCM cụ thể hơn khi nói rằng cần biết cải tiến một cách phù hợp các giải pháp xanh của thế giới cho các công trình ở trong nước và đáng chú ý là những điều chỉnh thích nghi này thật đa dạng trong đời thường: như chiêu “lõi sinh học” của tòa nhà, mái xanh, ống dẫn ánh sáng, che nắng, sử dụng năng lượng pin mặt trời, tuabin gió, bể thu hồi nước mưa, xử lý và sử dụng nước thải, bề mặt thấm nước, “vườn ướt”, “hồ sinh thái”…

Ở tầm vi mô doanh nghiệp, thực ra cũng đã và đang có những đơn vị tự “diễn biến” theo chiều hướng đạt chuẩn công trình xanh với cách làm đơn giản, bất ngờ và đầy hiệu quả. Mô hình đang được áp dụng tại siêu thị BigC là một dẫn chứng.

Một giới chức hệ thống siêu thị BigC bật mí “chiêu” tiết kiệm năng lượng giản đơn sau: Để làm mát trong khuôn viên siêu thị khi mở cửa đón khách vào ban ngày, thay vì sử dụng hệ thống điều hòa nhiệt độ vốn ngốn rất nhiều điện năng, BigC làm mát toàn bộ siêu thị bằng… đá. Toàn bộ lượng đá này được BigC sản xuất tại chỗ vào ban đêm, thời điểm khi mà nhiệt độ ngoài trời đã hạ và giá điện rẻ hơn ban ngày. Chỉ khi nào lượng đá cục đã sử dụng hết, siêu thị mới vận hành hệ thống làm mát bằng máy điều hòa. Kết quả là chi phí trả cho sử dụng điện năng làm mát hệ thống siêu thị BigC giảm rõ rệt, còn sâu xa hơn, khi điều hòa nhiệt độ giảm bớt liều lượng sử dụng, cũng đồng nghĩa giảm bớt tác nhân gây ra hiệu ứng nhà kính.

Huy Khánh - Ảnh: Cao Thăng

Thành phố xanh là gì?

[Xay dung xanh] - Thành phố xanh là gì? Nó được phát triển từ những ý niệm nào? Tiêu chuẩn để đánh giá là gì? Trên thế giới có những thành phố xanh nào? Việt Nam có thành phố xanh nào hay không? Trong bài sưu tầm này sẽ giải đáp những câu hỏi trên cho các bạn. 


Thành phố xanh (green city) được phát triển từ ba ý niệm: sinh thái, tính bền vững và thông minh. Trước hết, nó phải bắt đầu từ một đô thị sinh thái (eco-city), nơi một tỷ lệ đáng kể của cây xanh đóng góp vào sự cân bằng sinh thái trên một địa bàn quần cư đông đúc. Tiếp đến nó phải thể hiện yếu tố phát triển bền vững (sustainable city) với kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, việc khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên và ứng phó hữu hiệu với tình trạng biến đổi khí hậu. Cuối cùng, đô thị này đạt đến cấp độ một thành phố thông minh (smart city) nhờ tích hợp công nghệ thông tin (CNTT) vào việc quản lý, điều hành và phục vụ dân sinh. Bản thân CNTT đã là một hạ tầng cơ sở thiết yếu cho việc phát triển đô thị bền vững.
  • Đà Nẵng vừa chính thức công bố định hướng phát triển thành thành phố xanh ở Việt Nam. Ảnh bên là đường Điện Biên Phủ, một trong những con đường xanh và sạch ở khu trung tâm thành phố (Ảnh: Trung Châu) 
Xu hướng đô thị hóa diễn ra mỗi lúc một nhanh và các đô thị sẽ chiếm tới gần 3/4 nhu cầu năng lượng của thế giới vào năm 2030. Đô thị trở thành trung tâm của cả ba vấn đề là dân số tăng nhanh, tài nguyên cạn kiệt và khí hậu biến đổi. Tuy nhiên, đô thị cũng là nơi thu hút các giải pháp vì có đủ các yếu tố bao gồm vốn, công nghệ và nhân lực để thực hiện. Nhiều dẫn chứng từ các quốc gia phát triển đã cho thấy một đô thị bền vững được xác định dựa trên mức độ quan tâm đến sự tác động môi trường gây nên bởi thiên nhiên và con người, và vào việc sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng thời ngăn chặn tình trạng xả thải ra môi trường.

Phát triển thành phố xanh: nhu cầu và yêu cầu

Đô thị hay thành phố cho dù lớn hay nhỏ, hiện đại hay cổ kính là nơi mà chúng ta thấy rõ nhất những áp lực đè nặng lên cư dân, chính phủ và chính quyền địa phương, đòi hỏi phải giải quyết cấp bách hàng loạt vấn đề kéo dài trong nhiều năm. Một trong những nguyên nhân đến từ năng lực điều hành của các nhà quản lý đô thị. Đã có thời điểm nhiều nhà quản lý cho rằng chỉ cần có vốn thì họ sẽ giải quyết được những căn bệnh của các đô thị liên quan đến vấn đề dân số, y tế, môi trường, giao thông… Nhưng nay, họ hiểu rằng việc tập hợp và phân tích thông tin một cách có hệ thống là rất quan trọng, đây là cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp quản lý, cải tiến và vận hành. Từ đầu những năm 2000, thế giới đã chứng kiến sự thâm nhập mạnh mẽ của CNTT vào hệ thống điều hành xã hội. Đi đầu trong mục tiêu này có các tập đoàn công nghệ lớn như IBM, Oracle, Cisco hay Siemens.

Cùng với các chính phủ và các cộng đồng, các nhà cung ứng giải pháp CNTT nhắm tới mục tiêu cải thiện môi trường sống bằng việc đem nhúng các tri thức đã được mã hóa (infused intelligence) vào các hệ thống quản lý, khởi đầu cho thời đại mới mà con người sử dụng CNTT rộng rãi vào việc giải quyết các vấn đề của đô thị như tình trạng kẹt xe, ô nhiễm môi trường, y tế lạc hậu, sử dụng hoang phí các nguồn thực phẩm và năng lượng, sử dụng thiếu hiệu quả các nguồn tài nguyên… Sự tham gia của CNTT ở đây nhằm bảo đảm giải pháp mang tính khả thi, thực hiện nhanh chóng, ít tốn kém và có hiệu quả cao, góp phần vào việc hình thành môi trường bền vững.

Hai lĩnh vực mà các bên kỳ vọng rằng CNTT sẽ góp phần đạt đến hiệu quả cao trong tiến trình làm xanh thành phố là giảm tải đô thị (unburden the city) và quản lý khôn ngoan (wise management).

Việc giảm tải thành phố được đưa lên hàng đầu bởi đó là yêu cầu mang tính cấp thiết. Các đô thị lớn trên thế giới, đặc biệt ở các nền kinh tế đang phát triển, đều phải đối mặt với vấn đề lượng người nhập cư gia tăng, đường phố luôn đông đúc, trung tâm y tế luôn quá tải, nhu cầu về thực phẩm và nguyên liệu mỗi ngày một lớn và lượng rác thải, khí thải ngày càng lớn. Trong vai trò tạo nền tảng cho thương mại điện tử, hành chính điện tử, y tế điện tử hay hậu cần điện tử, ngành CNTT đã góp phần tích cực vào việc giảm tải và càng phát huy hiệu quả trong việc hỗ trợ giải quyết từng vấn đề theo hướng “thông minh hơn”. Tại bốn thành phố mà IBM triển khai các giải pháp chống kẹt xe khác nhau là Stockholm, London, Brisbane và Singapore, các bản báo cáo ghi nhận lượng xe vào giờ cao điểm giảm đi 18%, khí thải carbon từ xe cộ giảm xuống còn 14% và số người thích sử dụng phương tiện công cộng tăng lên 7%.



Singapore (ảnh: KTS Lưu Vĩnh Thanh)

Những dẫn chứng từ các thành phố xanh

Các đô thị xanh có thể được hình thành từ hạ tầng căn bản ban đầu hay từ việc cải tạo các thành phố có sẵn. Bên cạnh các thành phố xây mới nhằm tạo nên điểm nhấn đặc trưng của nền văn hóa xanh như Abu Dubai ở Arab Saudi, Dongtan ở Trung Quốc hay Songdo ở Hàn Quốc thì phần lớn các đô thị mới được hình thành bởi tiến trình đô thị hóa tự nhiên như các khu dân cư vượt lũ ở ĐBSCL. Ở đâu chính quyền có tầm nhìn tốt thì ở đó người ta quy hoạch ngay từ đầu một đô thị xanh. Trái lại, họ có thể để cho tiến trình đô thị hóa diễn ra tự phát và rồi đến lúc những dây điện chăng mắc trên các mái nhà, những con người vẫn quen tay đổ rác xuống những dòng kênh, những cơ sở công cộng không có lối vào và những nhà máy nhả khói giữa khu dân cư trở nên quen thuộc!

Việc cải tạo một thành phố thành đô thị xanh không phải là điều dễ dàng. Nhưng trong khi con người không thể chỉ đơn thuần bứng cây xanh đặt vào giữa lòng thành phố thì những giải pháp lại hướng con người theo lối suy nghĩ: đưa thành phố đặt vào giữa lòng cây xanh bằng việc xây dựng các đô thị xanh vệ tinh và thúc đẩy đầu tư vào các giải pháp chuyển hóa thành phố trung tâm thành đô thị thông minh. Đây là con đường tất yếu mà các đại đô thị như TPHCM hay Hà Nội sẽ phải trải qua. Trên thực tế, sự chậm trễ trong việc tích hợp CNTT vào các giải pháp đã làm cho hai thành phố lớn nhất Việt Nam này lún sâu vào các vấn đề nan giải, từ ngập lụt đến khói bụi, từ giao thông đến y tế, từ năng lượng đến rác thải và từ việc làm đến an sinh xã hội!.

Nổi lên trên các đô thị xanh vùng Đông Nam Á là Singapore. Ở đây có sự phát triển hài hòa về mọi lĩnh vực của một quốc gia trong một thành phố. Ở đây người ta không bắt gặp các “căn bệnh kinh niên” của một đô thị. Trong không gian chật hẹp đó có các khu thương mại sầm uất, công sở, trường học và lẽ dĩ nhiên không thiếu các mảng xanh sinh thái. Singapore kiểu mẫu này không phải tự nhiên mà có. Nó được hình thành từ những chiến lược mang tầm nhìn dài hạn, những tính toán quy hoạch, sự quyết tâm và những luật lệ khắt khe cùng cả một quá trình giáo dục công dân. Nhưng trên hết, Singapore ngày nay được vận hành bởi một hệ thống tích hợp CNTT, từ chính phủ điện tử đến công dân điện tử, từ thương mại điện tử đến hậu cần điện tử và từ sự hợp tác giữa chính quyền với các tập đoàn công nghệ như IBM để luôn cập nhật tầm nhìn và xây dựng giải pháp.

Phát triển thành phố xanh ở Việt Nam


Đà Nẵng 

Cũng như Singapore, Việt Nam sở hữu nền khí hậu nhiệt đới gió mùa tạo điều kiện phát triển nhanh chóng các mảng xanh. Một dẫn chứng về đô thị xanh vùng ĐBSCL có thể kể đến là Trà Vinh. Các mảng xanh tại đó được hình thành song song với kiến trúc đô thị và được bảo quản nguyên vẹn cho đến ngày nay, từ các hàng cây cao vút ven đường đến các khoảnh rừng giữa phố và các khu vườn làm nơi ẩn mình cho những ngôi chùa cổ kính. Nhiều đô thị sinh thái như thế từ nam chí bắc đã được hình thành dưới thời Pháp thuộc nhưng không mấy thành phố còn được giữ lại cho đến ngày nay. Mảng xanh trong đô thị bị thu hẹp dần một phần do sự thiếu hiểu biết của một nhóm cư dân và cả sự lơ là của nhà quản lý.

Một xu hướng mới đầu tư vào các khu đô thị sinh thái đã được khởi động ở nhiều tỉnh thành trên cả nước. Nhưng một hướng đầu tư quan trọng hơn nghiêng về đô thị thông minh được đề xướng bởi các nhà công nghệ toàn cầu như Cisco và IBM đang nhận được sự quan tâm đặc biệt nơi các thành phố lớn.

Vào tháng 10, Đà Nẵng chính thức công bố định hướng phát triển thành thành phố thông minh theo mẫu hình Singapore sau khi đạt được thỏa thuận hợp tác chiến lược với tập đoàn IBM. Trọng tâm của chiến lược hợp tác là hình thành một trung tâm điều hành thông minh. Đó chính là chuỗi các giải pháp nhằm giúp cho thành phố ở mọi quy mô đều có được một cái nhìn toàn cảnh. Trong đó tất cả thông tin, dữ liệu liên quan đến các cơ quan, ban ngành và cộng đồng trên phạm vi toàn thành phố được tập hợp, cập nhật thường xuyên, đồng thời, được kiểm soát ở một đầu mối duy nhất. Trung tâm này cũng chính là nơi quản lý và phân bố kế hoạch sử dụng hay giám sát chặt chẽ các nguồn tài nguyên.

Anh Vũ
 
Support : Creating Website | Johny Template | Mas Template
Copyright © 2011. Xây Dựng Xanh - All Rights Reserved
Template Created by Creating Website Published by Mas Template
Proudly powered by Blogger